Sự tiêu thụ thép trên toàn cầu: Cách các quốc gia đang phát triển có thể đạt mức sống cao mà không lãng phí


Summary

Bài viết này khám phá sự tiêu thụ thép trên toàn cầu, tập trung vào cách các quốc gia đang phát triển có thể nâng cao mức sống mà không gây lãng phí. Đây là một vấn đề quan trọng khi chúng ta cần tìm ra giải pháp bền vững cho ngành sản xuất thép. Key Points:

  • Sự gia tăng của thép xanh đang thay đổi cách tiêu thụ thép toàn cầu, đặc biệt ở các nước đang phát triển, nơi nhu cầu về cơ sở hạ tầng cao.
  • Tối ưu hóa chuỗi cung ứng và áp dụng công nghệ số có thể giảm thiểu lãng phí và tối đa hóa hiệu quả trong ngành thép.
  • Chính sách khuyến khích sử dụng thép bền vững và đầu tư vào công nghệ mới là chìa khóa để cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Tóm lại, bài viết mang đến cái nhìn sâu sắc về tương lai của ngành thép, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuyển đổi sang những phương thức bền vững hơn.

Tại sao tiêu thụ thép khác biệt giữa các quốc gia

Thế giới phát triển có thể đạt được mức sống tiêu chuẩn của các nước tiên tiến mà không cần lãng phí thép như ở các nước này. Nhưng thực tế, mỗi người cần bao nhiêu thép để có một mức sống "tiêu chuẩn thế giới"? Nhiều người ở các quốc gia phát triển dường như không bao giờ đặt ra câu hỏi này. Họ chỉ đơn giản là thức dậy từ chiếc giường được giữ vững bằng những con ốc và bu-lông bằng thép, đứng trên nền nhà được gia cố bằng bê tông cốt thép, nấu bữa sáng trong những căn bếp đầy thiết bị bằng thép, ăn uống với những dụng cụ cũng làm từ vật liệu này, rồi lái xe đến nơi làm việc - thường là những chiếc ô tô cũng được làm chủ yếu từ thép. Sau đó, họ bật máy tính xách tay hoặc thiết bị máy móc chứa nhiều thành phần bằng thép để bắt đầu một ngày làm việc mới. Thép hiện diện khắp mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, điều này lại không phổ biến ở nhiều khu vực đang phát triển.

Để nâng cao nhận thức về sự khác biệt trong tiêu thụ thép giữa các quốc gia, quan trọng là phải nhấn mạnh nguyên lý phát triển bền vững và chiến lược sử dụng vật liệu hợp lý hơn. Các nước phát triển thường áp dụng công nghệ tái chế tiên tiến nhằm giảm thiểu lượng chất thải tạo ra từ quá trình sản xuất và sử dụng thép. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và ứng dụng các loại vật liệu thay thế nhẹ hơn cũng giúp tiết kiệm tài nguyên quý giá cho hành tinh của chúng ta. Hơn nữa, chính sách quản lý chất thải hiệu quả cùng với việc khuyến khích sản xuất xanh đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nhu cầu tiêu thụ thép tại từng quốc gia khác nhau.

Mỗi người cần bao nhiêu thép để có cuộc sống tiêu chuẩn thế giới

Các nguồn dữ liệu cho các số liệu tiêu thụ thép bình quân đầu người hàng năm bao gồm thông tin từ OECD và Hiệp hội Thép Thế giới đối với châu Phi, từ lộ trình công nghệ sắt và thép của IEA cũng như triển vọng của Hiệp hội Thép Thế giới về Trung Quốc, báo cáo từ triển vọng kinh tế và thị trường thép của Eurofer, cùng với những hiểu biết từ phân tích thị trường của IMARC Group đối với châu Âu và cái nhìn năng lượng Ấn Độ của IEA dành cho Ấn Độ, cũng như thông tin do Viện Sắt và Thép Hoa Kỳ cung cấp cho Mỹ. Như bảng thống kê đã chỉ ra, mức tiêu thụ thép trên toàn cầu có sự khác biệt rõ rệt. Có thể nói rằng châu Âu và Mỹ là những khu vực thuộc "thế giới phát triển", nơi mà mỗi cá nhân tiêu thụ khoảng ba đến bốn lần khối lượng cơ thể họ bằng thép mỗi năm để phục vụ cho sự tiện nghi, thoải mái và có thể cả lợi nhuận. Việc nghiên cứu cách sử dụng thép hiệu quả rất quan trọng trong việc tối ưu hóa quy trình sản xuất cũng như tái chế vật liệu này. Bên cạnh đó, chất lượng và tính bền vững của vật liệu thép cũng cần được chú trọng. Công nghệ đóng vai trò then chốt trong việc giảm thiểu lãng phí và gia tăng hiệu suất sử dụng thép; đồng thời cần xem xét các giải pháp thân thiện với môi trường nhằm đạt được một cuộc sống cao đẹp mà không làm tổn hại đến tài nguyên thiên nhiên.
Extended Perspectives Comparison:
Khía cạnhThông tin
Tiêu thụ thép bình quân đầu người ở châu Âu và MỹKhoảng 3-4 lần khối lượng cơ thể mỗi năm
Tiêu thụ thép ở Ấn ĐộKhoảng 90 kg mỗi năm, tương đương trọng lượng cơ thể
Tiêu thụ thép ở châu PhiKhoảng 30 kg gần đây
Tỷ lệ sử dụng thép tái chế ở Mỹ71% qua các lò điện hồ quang
Sự khác biệt trong tiêu thụ thép giữa Trung Quốc và các nước phát triển khácTrung Quốc đang xây dựng nhiều hơn so với mức tiêu thụ hiện tại của họ

Sự suy giảm tiêu thụ thép tại Mỹ và châu Âu

Việc Mỹ có mức tiêu thụ thép thấp hơn châu Âu thật sự rất thú vị. Qua 40 năm qua, số liệu cho thấy rõ ràng rằng mức tiêu thụ thép bình quân đầu người trong nước đã giảm mạnh từ khoảng 500 kg xuống còn mức hiện tại, trong khi châu Âu chỉ giảm ít hơn. Một phần nguyên nhân đến từ quá trình deindustrialization, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng sự gia tăng sử dụng thép tái chế ở Mỹ, đạt tới 71% qua các lò điện hồ quang, đã làm cho những con số này có vẻ khác biệt hơn. Dù sao đi nữa, ở các nước phát triển phương Tây, cuộc sống của mỗi cá nhân trở nên thuận tiện và dễ dàng hơn một cách đáng kể nhờ vào việc ba đến bốn lần trọng lượng cơ thể của họ được đưa vào những thứ xung quanh mà họ gần như không hề nhận ra.

So sánh sản xuất thép trên đầu người giữa Trung Quốc, Ấn Độ và các nước phát triển

Sự suy giảm sản xuất thép ở Mỹ đã khiến tôi đặt câu hỏi về việc liệu lượng thép sản xuất trên đầu người của Trung Quốc có phải là điều bất thường so với các quốc gia có ngành công nghiệp nặng phát triển. Tôi đã quay ngược thời gian đến năm 1900 để xem xét số liệu của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, những nước khởi xướng Cách mạng Công nghiệp, cùng với Trung Quốc và Ấn Độ. (Lưu ý rằng những con số này được tổng hợp nhanh chóng, trong đó nhiều dữ liệu châu Âu thường được ước tính từ thống kê quốc gia, vì vậy hãy coi chúng như những chỉ báo hữu ích hơn là sự chính xác học thuật.)

Như có thể thấy, tỷ lệ sản xuất thép trên đầu người hiện tại của Trung Quốc không cao hơn nhiều so với mức đỉnh điểm của Mỹ hay châu Âu như hiện nay gợi ý. Thực tế, đây là một diễn biến rất gần đây. Hiện tại, dân số 1.1 tỷ người ở châu Âu và Mỹ thấp hơn so với 1.4 tỷ người ở Trung Quốc; nhưng hãy nhìn vào khoảng thời gian mà hai khu vực này đã sản xuất hàng triệu tấn thép bằng lò luyện kim và than đá. Tôi đã bỏ qua châu Phi trong biểu đồ vì nó chỉ nằm ngang dưới đáy; tuy nhiên nếu bạn quay lại bảng số liệu thì sẽ thấy lượng tiêu thụ thép trên đầu người ở lục địa này chỉ đạt khoảng 30 kg gần đây. Với một lục địa rộng lớn chứa 55 quốc gia và 1.46 tỷ dân cư - nơi mà trọng lượng cơ thể trung bình chỉ bằng hai phần ba so với người Mỹ - họ vẫn đang chứng kiến ​​mức tiêu thụ nội địa chưa tới nửa kg thép mỗi năm cho mỗi người.

Còn đối với Ấn Độ thì tình hình ít kịch tính hơn một chút: mỗi công dân tiêu thụ khoảng tương đương trọng lượng bản thân mình bằng thép, tức gần 90 kg mỗi năm. Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, việc áp dụng các công nghệ tái chế thép bền vững trở nên quan trọng hơn bao giờ hết nhằm cải thiện hiệu suất sản xuất đồng thời bảo vệ môi trường tự nhiên cho thế hệ tương lai.


So sánh sản xuất thép trên đầu người giữa Trung Quốc, Ấn Độ và các nước phát triển Free Images


Liệu các quốc gia đang phát triển có cần đạt mức tiêu thụ thép cao như phương Tây?

Ấn Độ vẫn còn xa so với mức tiêu thụ trên đầu người của châu Âu hay Mỹ, nhưng đã tăng cường sự giàu có cho dân số trong nhiều thập kỷ, đến mức chỉ còn khoảng 10% sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Một mục tiêu rõ ràng của các chính phủ Ấn Độ trong những năm qua là đưa dân cư ra khỏi nghèo đói, và điều này đang diễn ra khá khả quan. Mức tiêu thụ thép thường có mối tương quan mạnh mẽ với sự gia tăng về mức độ giàu có trên đầu người. Để thêm bối cảnh, trung bình một người Mỹ phát thải gần 5 tấn khí nhà kính chỉ từ việc lái xe mỗi năm, gấp nhiều lần khoảng 1.4 tấn khí nhà kính mà mỗi người ở Trung Quốc phát thải từ thép.

Nếu ta xem xét kỹ lưỡng hơn bảng thống kê về cách sử dụng thép ở các khu vực khác nhau, sẽ thấy rằng Bắc Mỹ dường như không theo kịp xu hướng toàn cầu; tới 92% số chuyến đi vào ngày làm việc được thực hiện bằng ô tô, so với 45% ở châu Âu và 30% ở châu Á. Tuy nhiên, tỷ lệ này dường như không phản ánh đúng thực tế. Hoa Kỳ không chỉ sản xuất khoảng 10 triệu xe nhẹ mỗi năm mà còn nhập khẩu thêm khoảng 6 triệu chiếc nữa, với gần 5% dân số - mặc dù con số này không hoàn toàn chính xác - mua một chiếc xe mới mỗi năm. Ngược lại, châu Âu xuất khẩu nhiều hơn khoảng 1.4 triệu xe nhẹ so với lượng nhập khẩu và là khu vực phụ thuộc vào thương mại nhất; trong khi Trung Quốc xuất khẩu tới gần 16% sản lượng xe nhẹ.

Mặc dù vậy, động lực cũng nằm ở trọng lượng của những chiếc xe: ô tô nhẹ của Mỹ nặng trung bình lên tới khoảng 1.9 tấn, trong khi đó con số này ở châu Âu là khoảng 1.4 tấn và ở Trung Quốc là khoảng 1.5 tấn (do có nhiều xe điện hơn được sản xuất và bán), còn tại India thì trung bình chỉ đạt khoảng 1.2 tấn.

Ở cả Hoa Kỳ và châu Âu đều có tỷ lệ lớn hơn rất nhiều về số người mua ô tô thay thế hoặc bổ sung vào đội ngũ phương tiện cá nhân so với các nước khác trên thế giới. Cách mà họ di chuyển đã tạo nên một bức tranh rõ nét hơn về nhu cầu thép nội địa liên quan đến ô tô cá nhân.

Tương lai cho các quốc gia đang phát triển sẽ không giống như mô hình phụ thuộc vào ô tô hạng nhẹ tương tự như thế giới phát triển hiện nay; đô thị hóa tại đây thường tập trung hơn và họ đang xây dựng những mạng lưới giao thông công cộng quy mô lớn thay vì mở rộng vùng ngoại ô vô tận như Bắc Mỹ – nơi mà nỗi sợ hãi chiến tranh hạt nhân hay vấn đề phân biệt chủng tộc đã dẫn đến sự mở rộng đô thị cùng hệ thống đường bộ khổng lồ gấp ba lần so với châu Âu và gấp sáu lần so với Trung Quốc.

Hãy chú ý đến khía cạnh đáng kể liên quan đến cơ sở hạ tầng và xây dựng: cả Trung Quốc lẫn India đều đổ một tỷ lệ lớn thép vào những tài sản kinh tế dài hạn như thành phố mới, đường sắt, tàu điện ngầm... Những khoản đầu tư này hoàn toàn hợp lý bởi trước năm 1980 hoặc thậm chí năm 1990 họ vẫn thiếu hụt nghiêm trọng những cơ sở vật chất cần thiết ấy.

Chẳng hạn như tôi vừa khám phá ra rằng trước năm 1987 Trung Quốc chưa có hệ thống cao tốc nào để nói tới; giờ đây họ đã xây dựng được gần hết chiều dài lên tới hàng trăm ngàn kilômét – đứng thứ hai chỉ sau Hoa Kỳ! Tương tự đối với dịch vụ tàu cao tốc tại Trung Quốc: trước năm 2007 chẳng ai nghĩ rằng đây sẽ trở thành lãnh đạo toàn cầu trong lĩnh vực này.

Những công trình kiến trúc cũng là một phần tiêu dùng lớn thép nhờ sử dụng bê tông cốt thép – bên cạnh cầu cống cũng vậy.

Mô hình giao thông và nhu cầu thép ở Bắc Mỹ so với các khu vực khác

Các con đập và hệ thống nước cũng vậy. Nhưng như tôi đã đề cập trong chuỗi bài viết về bê tông của mình, có rất nhiều cách để giảm thiểu hoặc thậm chí loại bỏ thép khỏi công thức xây dựng bê tông, và tất cả các phương pháp này đều có thể áp dụng ở các nước đang phát triển. Một số phương pháp còn rẻ hơn nữa, nên sẽ được sử dụng gần như tự động. Hãy bắt đầu với điều hiển nhiên. Các quốc gia phát triển thường lạm dụng vật liệu này trong các công trình của họ vì chúng ta có khả năng tài chính tốt và lo ngại về trách nhiệm pháp lý cao. Thay vì phải lo lắng về những vụ kiện trong tương lai, việc làm to bự thêm tường và nền móng trở nên dễ dàng hơn và cũng đã từng rẻ hơn. Những quy tắc kỹ thuật mà chúng ta tuân thủ đã trở nên cồng kềnh, không còn gọn gàng và hiệu quả nữa.

Rõ ràng là việc định giá carbon cùng với các quy định về carbon trong quá trình xây dựng sẽ buộc chúng ta phải "ăn kiêng" trong lĩnh vực xây dựng. Chúng ta đã thấy chi phí cho mỗi tấn bê tông cốt thép tại Canada và châu Âu tăng lên tới 20% và điều đó chắc chắn sẽ thúc đẩy sự thay đổi. Việc áp dụng các vật liệu nhẹ hơn hay công nghệ mới cũng giúp giảm thiểu nhu cầu sử dụng thép một cách đáng kể, đặc biệt là khi so sánh giữa Bắc Mỹ với các khu vực khác trên thế giới nơi có nhu cầu thấp hơn do chính sách phát triển đô thị khác nhau. Tất cả những yếu tố này kết hợp lại sẽ tạo ra một bước chuyển lớn cho ngành xây dựng hiện nay.

Xây dựng cơ sở hạ tầng: ai sử dụng nhiều thép hơn?

Nhưng thế giới đang phát triển vẫn chưa thực sự định giá carbon. Thay vào đó, họ không có nhiều tiền để lãng phí như châu Âu hay Hoa Kỳ. Các nhà phát triển ở đây sẽ luôn phải tiết kiệm hơn. Hầu hết các dự án xây dựng kém chất lượng đã qua đi và hiện nay công trình xây dựng đã an toàn hoàn toàn, mặc dù vẫn còn một chút không quá an toàn. Tuy nhiên, phần mềm lại rất rẻ. Nhờ vào kiến trúc sáng tạo có khả năng thiết kế và tái thiết kế một tòa nhà hàng ngàn lần để tìm ra cách sử dụng vật liệu tối ưu và phân tích phần hữu hạn (finite element analysis) giúp xác định chính xác lượng bê tông cốt thép cần thiết ở những khu vực khác nhau của công trình để đảm bảo tính vững chắc, các tòa nhà giờ đây có thể tiết kiệm tới 20% bê tông mà vẫn đạt độ an toàn tương tự, thậm chí còn nhiều hơn trong những dự án thường bị phình to lên ở phương Tây.

Cách mà công nghệ mới giúp giảm thiểu lượng thép trong xây dựng

Việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại ở Ấn Độ và Trung Quốc với ít vật liệu hơn có thể giúp giảm lượng carbon phát thải so với thế giới phát triển. Có một vài yếu tố bổ sung sẽ xảy ra ngay lập tức. Thứ nhất, việc sử dụng sợi thủy tinh trộn lẫn với bê tông cho phép đổ các tấm lớn hơn mà không cần đến thép, tiết kiệm thời gian và công sức lao động, đồng thời giảm thiểu carbon trong quá trình sản xuất. Thứ hai, sợi carbon có thể làm nhẹ các cấu trúc chịu tải bằng cách giảm hoặc loại bỏ thép và cần ít bê tông hơn, từ đó làm giảm đáng kể tổng lượng carbon được tạo ra. Phần mềm đã đề cập trước đó cũng đã biết cách xử lý những lựa chọn thay thế cho thép này và có thể thực hiện so sánh chi phí giữa chúng một cách hiệu quả.

Tương lai của nhu cầu thép toàn cầu sẽ ra sao?

Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng những phương pháp này sẽ tiết kiệm chi phí hơn so với các công nghệ truyền thống. Các kiến trúc sư và kỹ sư kết cấu ở các nước đang phát triển không hề kém phần tinh vi hay thiếu năng lực kỹ thuật. Khi họ xây dựng tương lai cho đất nước mình, họ sẽ sử dụng một bộ công cụ mà trước đây chưa từng có trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn tại thế giới phát triển, nơi mà máy tính cầm tay và bút chì thường là những công cụ duy nhất để xác định thể tích và thành phần của các cấu trúc chịu tải. Có rất nhiều lợi thế khi xây dựng trong thời đại công nghệ thông tin đầy đủ và khoa học vật liệu tiên tiến, và rõ ràng rằng thế giới phát triển đang hưởng lợi từ những điều đó.

Điều gì làm cho sự phát triển của các nước đang phát triển trở nên khác biệt?

Có một yếu tố lớn khác liên quan đến vấn đề này. Nhớ rằng, biểu đồ sản xuất và tiêu thụ thép của Trung Quốc đã tăng vọt trong khi Mỹ và châu Âu nhanh chóng giảm xuống. Một phần trong đó là do phương Tây đang giảm công nghiệp hóa, đặc biệt là Mỹ, nhưng một phần lớn nữa là vì cả châu Âu và Mỹ đã xây dựng hầu hết cơ sở hạ tầng mà họ cần, trong khi Trung Quốc phải bắt kịp một cách nhanh chóng. Cơn sốt xây dựng ở Trung Quốc đang đi đến hồi kết. Họ đã có hầu hết các thành phố, đường sắt, xa lộ và hệ thống nước mà họ cần. Hiện tại, việc thay thế các nhà máy than bằng năng lượng gió, nước, mặt trời cùng với hệ thống lưu trữ và truyền tải đang diễn ra rất nhanh chóng; tuy nhiên, tất cả thép được tiêu thụ để xây dựng nền kinh tế hiện đại trong 25 năm qua sẽ chỉ nằm yên đó để chịu tải. Trung Quốc chuyển sang chế độ bảo trì và thay thế.

Phần còn lại của thế giới sẽ xây dựng cơ sở hạ tầng chậm hơn nhiều so với Trung Quốc. Họ không có sự kết hợp kỳ lạ các yếu tố cho phép điều đó xảy ra. Tôi đã sống và làm việc ở Brazil, thậm chí nói đủ tiếng Bồ Đào Nha để tham gia các cuộc hội thoại và cuộc họp kinh doanh dù còn ngập ngừng. Thật khó để Brazil phát triển như những gì mà Trung Quốc đã đạt được. Tôi cũng từng dành thời gian ở Indonesia; quốc gia này sẽ không trở thành một nhà sản xuất lớn bất cứ lúc nào sắp tới, nhất là khi dân số chỉ chiếm 20% so với Trung Quốc.

Khi bước vào khối BRICS: Nga đang gặp khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, đưa người dân cùng trang thiết bị cũ kỹ vào vòng xoáy khó khăn; nước này đang đốt cháy dự trữ tiền tệ của mình do áp lực từ lệnh trừng phạt và những cú tấn công hiệu quả vào cơ sở hạ tầng dầu mỏ của Ukraine; đồng thời phải trả giá cao cho dầu tinh chế và vũ khí từ các quốc gia khác. Nam Phi từng là ánh sáng hy vọng vào đầu những năm 2000 nhưng giờ đây không còn như vậy nữa.

Điều tôi muốn nhấn mạnh là phần còn lại của thế giới sẽ tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng chậm hơn rất nhiều so với Trung Quốc trước kia vì họ thiếu những điều kiện thuận lợi tương tự như vậy. Điều này có nghĩa rằng mặc dù nhu cầu về thép bên ngoài Trung Quốc vẫn có thể tăng trưởng nhưng khả năng tiêu thụ bên trong đất nước này có thể giảm sút dần theo thời gian.

Trung Quốc hiện nắm giữ 57% tổng sản lượng thép toàn cầu năm 2023; do đó nhu cầu toàn cầu về thép có khả năng sẽ suy giảm trong vài thập kỷ tới. Hơn nữa, quốc gia này hiện chiếm khoảng 59% đơn đặt hàng đóng tàu trên toàn cầu - vậy thì liệu họ cần thêm bao nhiêu xưởng đóng tàu nữa? Với khoảng 90% hoặc hơn mạng lưới đường bộ và đường sắt cần thiết đã hoàn thành rồi thì con đường phía trước xem ra khá rõ ràng.

Dù vẫn còn nhiều công trình điện gió, mặt trời cùng với hệ thống lưu trữ năng lượng hay thủy điện phải được phát triển nhưng đất nước này cũng có thể bắt đầu phá bỏ nhiều cơ sở hạ tầng sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong vài năm tới. Thế giới đang phát triển sẽ xây dựng thông minh hơn rất nhiều so với cách mà thế giới phát triển trước đây đã làm - bằng cách sử dụng vật liệu tiên tiến hơn.

Họ dường như sẽ khó lòng trải qua những cơn bùng nổ giống như sau Chiến tranh Thế giới II ở châu Âu hay sự bùng nổ sau năm 1980 tại Trung Quốc. Ngay cả khi chúng ta tìm mọi cách để giảm thiểu carbon hóa cho ngành thép cũng như xi măng thì nhu cầu về chúng vẫn xu hướng giảm dần chứ không tăng lên đâu nhé.

Reference Articles

Cuộc chiến thép toàn cầu đang nóng lên

Rủi ro đối với các nhà sản xuất thép trên toàn thế giới là thuế quan của Tổng thống Trump sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng cung vượt cầu, gây ...

Source: Báo Mới

Ngành thép Việt Nam đối diện con sóng lớn

Trung Quốc là quốc gia sản xuất thép lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 50% sản lượng thép toàn cầu. Tuy nhiên, việc sản xuất thép quá mức trong ...

Source: nguoiquansat.vn

Phân tích những yếu tố định hình tương lai của kết cấu thép

28 thg 3, 2024

Khó khăn bủa vây ngành thép

Năm 2024, dự báo nhu cầu thép toàn cầu sẽ đạt 1,8 tỷ tấn, tăng 1,9% so với năm 2023, nhưng nguồn cung thép toàn cầu dự kiến giảm nhẹ 1% do tác ...

Trung Quốc giảm sản lượng thép, áp lực lên quặng sắt ...

Sự suy giảm kéo dài của thị trường bất động sản Trung Quốc từ sau đại dịch Covid-19 đã dẫn đến sự dư thừa lớn về thép, phần lớn trong số đó đã ...

Dự báo ngành thép toàn cầu năm 2025 trước những 'biến ...

Sản lượng thép thô toàn cầu được dự báo sẽ tăng khiêm tốn vào năm 2025 so với mức của năm 2024, mức tăng hàng năm đầu tiên kể từ mức tăng gần 4% ...

Source: nguoiquansat.vn

Tháo gỡ khó khăn, bảo vệ doanh nghiệp sản xuất thép ...

Sản xuất thép thô của Việt Nam hiện đứng vị trí thứ 13 thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN. Tuy nhiên, ngành thép hiện nay gặp nhiều khó khăn ...

Ngành thép năm 2023 những yếu tố nào tác động mạnh ...

... Thép Thế giới (WSA),năm 2024, nhu cầu thép toàn cầu dự kiến tăng 1,9% đạt 1.849,1 triệu tấn. Trong đó nhu cầu tiêu thụ thép của khu vực 5 nước ...


Dieter Wegener

Expert

Related Discussions